Đọc phần 1 tại đây [TẠI ĐÂY].
- Định kiến
Định kiến (tiếng Anh: stereotyping) là suy nghĩ riêng có sẵn, khó có thể thay đổi và thường là không hay mà một người tự đưa ra hay được tiếp nhận từ một người nào khác và tin tưởng điều đó. Nó thể hiện qua việc gán một đặc điểm chung nào đó cho một nhóm đối tượng chủ yếu dựa trên yếu tố cảm xúc, không thể hiện tính chính xác và thường thiên lệch.
*Nguồn ảnh: Vietcetera*
Trong các cuộc hội thoại đời thường, rất dễ dàng để chúng ta nghe thấy những câu như “tụi Gen Z thế này”, “tụi dân thành phố thế nọ”, “tụi dân tỉnh thế kia”, “tụi trường A thế đó”, v.v.. Những nhận định này thường mang tính chủ quan và dựa trên một vài cá thể, ví dụ được lấy làm đại diện cho cả một nhóm. Một nghiên cứu năm 2017 trên Social Psychological and Personality Science chỉ ra rằng các doanh nghiệp thường sử dụng thông tin về trường học của ứng viên để quyết định có nên tuyển dụng họ hay không vì định kiến về sinh viên các trường. Con số này đáng ngạc nhiên khi chiếm tới 20% yếu tố quyết định.
Định kiến hiển nhiên gây ra sự phân biệt đối xử, chia rẽ cộng đồng, xã hội. Theo Báo cáo Giám sát Giáo dục Toàn cầu của UNESCO năm 2021, giải quyết định kiến là một trong những nhiệm vụ then chốt để giải quyết nạn phân biệt đối xử.
- Nguỵ biện
Nguỵ biện (tiếng Anh: logical fallacy) có thể được hiểu là một cách “chơi chiêu” hòng giành lợi thế khi tranh luận thông qua các lập luận sai logic, không đóng góp vào việc tìm ra kết luận chính xác cho một vấn đề.
*Nguồn ảnh: Vietcetera*
Ví dụ, hai người tranh luận về chuyện vệ sinh thân thể. Người A nói rằng cần giữ vệ sinh thân thể để tránh các bệnh da liễu, giúp sức khoẻ da ổn định và tốt hơn. Người B nói người A tắm rửa sạch sẽ mỗi ngày nhưng vẫn bị mụn trứng cá, da không khoẻ mạnh bằng người B chỉ tắm rửa mỗi 3-4 ngày. Trong trường hợp này, người B thay vì bàn về tầm quan trọng của việc vệ sinh thân thể thì lại chuyển hướng công kích người A bất chấp lí do người A bị mụn trứng cá có thể do các nguyên nhân ngoài vấn đề vệ sinh.
Trong một bài phân tích được xuất bản năm 2022, MIT Technology Review chỉ ra rằng có ít nhất 18% lập luận được thu thập từ bất cứ cuộc tranh cãi trên mạng xã hội nào có sử dụng việc công kích cá nhân để chiếm ưu thế.
Ngụy biện thường làm cuộc nói chuyện lệch hướng, gây căng thẳng không cần thiết. Một nghiên cứu năm 2021 trên Nature cho thấy ngụy biện phổ biến trong các nhóm cực đoan trên mạng, đặc biệt ở các nền tảng có độ kiểm soát thấp, thúc đẩy mạnh mẽ hơn sự chia rẽ cộng đồng, xã hội. Khi tranh luận, chúng ta cần học cách nhận diện ngụy biện và tập trung vào các dữ kiện, thông tin để củng cố ý kiến của mình, không công kích cá nhân.
- Khoảng cách thấu cảm
Khoảng cách thấu cảm (tiếng Anh: empathy gap) là hiện tượng khi chủ thể đánh giá không thể kết nối cảm xúc với đối tượng bị đánh giá và đưa ra phán xét chủ quan dựa trên cảm xúc của mình.
*Nguồn ảnh: Vietcetera*
Thiên kiến này rất dễ bắt gặp trong cuộc sống, ví dụ như giữa cấp trên và cấp dưới. Trong khi cấp dưới là người thực hiện công việc và họ biết rõ ràng những khó khăn và sức ép của công việc ở từng giai đoạn, cấp trên thông thường không thể đồng cảm và cảm thấy sự căng thẳng mà cấp dưới chịu đã bị thổi phồng và sự gấp gáp đến từ việc họ thiếu năng lực quản lý. Một nghiên cứu năm 2018 trên Journal of Personality and Social Psychology nói khoảng cách thấu cảm làm giảm 15% hiệu quả làm việc nhóm.
Khoảng cách thấu cảm được xem như một nhân tố quan trọng dẫn tới những rạn nứt trong các mối quan hệ. Từ những mối quan hệ chuyên nghiệp tới những mối quan hệ cá nhân, con người ta thường kỳ vọng đối phương có thể hiểu được mình, nhưng trên thực tế, điều đó khó có thể đạt được hoặc duy trì liên tục. Trong các môi trường căng thẳng hoặc thiếu kết nối thực tế, con người thường có xu hướng tập trung vào bản thân nhiều hơn và thiếu không gian cũng như năng lượng để nghĩ cho người khác. Theo một nghiên cứu năm 2020 trên The Lancet, việc luyện tập suy nghĩ cho người khác cần được thực hành thường xuyên và tự nguyện, chỉ có như vậy, khoảng cách thấu cảm mới được thu hẹp một cách tích cực.
- Hiệu ứng sai lệch thông tin
Hiệu ứng sai lệch thông tin (tiếng Anh: misinformation effect) là hiện tượng ký ức bị não bộ bóp méo hoặc chỉnh sửa theo hướng có lợi hơn cho bản thân.
*Nguồn ảnh: Vietcetera*
Đây là một hiện tượng phổ biến và xảy ra ở tất cả mọi người, kể cả những người luôn quả quyết về khả năng ghi nhớ của mình. Những sự bóp méo, tự động chỉnh sửa ký ức này của não bộ con người đã dẫn đến nhiều vấn đề liên quan đến phán quyết, nhất là trong việc thu thập bằng chứng kết tội một ai đó. Theo một nghiên cứu năm 1994 của E. Loftus trên Journal of Experimental Psychology, trung bình có tới 40% nhân chứng báo cáo thay đổi lời khai sau những câu hỏi gợi ý, điều này cho thấy sự thiếu chắc chắn của ký ức.
Hiệu ứng sai lệch thông tin là một vấn đề lớn trong tâm lý học nói chung và tâm lý học pháp y nói riêng. Việc luyện tập ghi nhớ và kiểm tra ký ức với các bằng chứng chắc chắn hơn như ảnh hoặc video được cho là sẽ giúp cải thiện hiện tượng này.
- Hiện tượng đóng khung
Hiện tượng đóng khung (tiếng Anh: framing effect) là hiện tượng một người thay đổi quan điểm của mình khi tiếp cận cùng một thông điệp nhưng được trình bày bằng một cách khác.
*Nguồn ảnh: Vietcetera*
Hiện tượng này được thấy nhiều trong tiếp thị bởi sự thiên vị sẵn có của con người với những những thứ, những người mà mình dễ dàng tìm thấy sự gắn kết. Ví dụ, một người đang có nhu cầu giảm cân thường chú ý tới các sản phẩm đề cập tới hàm lượng chất béo. Giả sử một sản phẩm có 20% hàm lượng chất béo, các hãng sẽ ưu tiên dùng cách nói “80% không béo” để kích thích khách hàng hơn. Thậm chí, luật ghi nhãn thực phẩm ở nhiều quốc gia cho phép thực phẩm ghi “không chất béo” nếu lượng chất béo trong mỗi khẩu phần ăn ở mức dưới 0,5g. Việc được phép ghi “không chất béo” hay “0% chất béo” hiển nhiên sẽ giúp sản phẩm được bán dễ dàng hơn nếu ghi “ít béo”.
Một nghiên cứu năm 2016 trên Journal of Marketing Research chỉ ra rằng cách nói tích cực trong tiếp thị giúp tăng 25% doanh số. Còn trong lĩnh vực y tế, nghiên cứu năm 2019 trên Health Affairs chỉ ra rằng cách diễn đạt “hiệu quả/thành công tới 90%” thay vì “chỉ 10% thất bại” sẽ khiến bệnh nhân an tâm và chịu nghe lời bác sĩ gấp đôi. Hiện tượng này cũng thường được lợi dụng trong các chiến dịch tranh cử, khi các ứng cử viên cố gắng thu hút dư luận bằng những mục tiêu tích cực mà công chúng quan tâm, mong muốn bất chấp sự thật họ có thể không thực hiện được vì độ khả thi thấp.
Để ít bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng đóng khung, chúng ta cần học cách tư duy ngược, tự trình bày lại thông điệp dưới một cách khác nhằm tránh bị những từ ngữ tích cực che mắt. Việc tính toán dựa trên các dữ kiện khách quan cũng rất quan trọng trong quá trình đưa ra nhận xét.
- Hiệu ứng hào quang
Hiệu ứng hào quang (tiếng Anh: halo effect) là hiện tượng một người cho rằng mình hoặc người mình có cảm tình có năng lực cao hơn năng lực thực tế của họ.
*Nguồn ảnh: Vietcetera*
Chúng ta có thể bắt gặp hiệu ứng này ở khắp mọi nơi, việc ưu ái chính bản thân mình hoặc những người mình yêu thích là một điều bình thường, tuy nhiên, nó cũng đem lại sự sai lệch trong đánh giá. Dù rằng người đó có thể chỉ giỏi ở một vài mặt của một lĩnh vực nào đó, hiệu ứng hào quang sẽ cho rằng người đó giỏi ở mọi mặt của lĩnh vực đó. Một nghiên cứu năm 2019 trên Journal of Applied Psychology nói sự yêu mến làm lệch đánh giá hiệu suất tới 15%.
Hiển nhiên, dưới tác động của hiệu ứng hào quang, việc tuyển dụng sai người, đề bạt nhầm người hoặc đánh giá thành tích thiếu chính xác tạo ra những bất công. Cách khắc phục duy nhất đó là tự điều chỉnh để không cho cảm xúc lấn át và cần có thang đo rõ ràng và những tiêu chí khách quan để đánh giá không bị chi phối bởi tình cảm cá nhân.
Như vậy, chúng ta có thể thấy ai cũng có thể có ít nhất là một hoặc một vài kiểu thiên kiến trong quá trình tư duy. Để có thể thoát khỏi những chiếc bẫy này, chúng ta cần hiểu để nhận diện chúng và có những suy nghĩ sáng suốt hơn. Việc tự soi chiếu, thường xuyên tự kiểm điểm, mở rộng góc nhìn qua việc tham khảo ý kiến người khác cũng như dựa vào số liệu, tiêu chí đánh giá để quyết định sẽ giúp ích rất nhiều.