Các bạn yêu ngôn ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng ơi, một trong những sự thật kỳ lạ mới nhất mà bạn biết đến là gì? Bạn có bao giờ thắc mắc về cách mà người ta chọn lựa từ của năm chưa?
Hiện nay, có rất nhiều từ điển coi việc lựa chọn từ của năm như một công tác thường niên, ghi nhận sự biến chuyển của thế giới ngôn ngữ. Để lựa chọn từ của năm, các đơn vị thường sử dụng một hệ thống kết quả phân tích dữ liệu ngôn ngữ gồm nhiều yếu tố, như tần suất sử dụng, tần suất tra cứu, ý kiến chuyên gia từ các nhà từ điển học, tầm quan trọng của từ trong việc phản ánh các sự kiện chính trên thế giới, và quan trọng hơn cả là xu hướng văn hóa của năm đó. Một số đơn vị còn thêm vào tiêu chí bình chọn công khai nhằm thể hiện chính xác nhất quan điểm của đa số. Và dù bạn tin hay không, từ “brainrot” (thối não) thực sự đã được vinh danh là từ của năm của Từ điển Oxford trong năm vừa qua! Tại sao một từ có vẻ không được nghiêm túc lắm như vậy lại trở thành một trong những từ tiếng Anh quan trọng nhất trong năm? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu trong bài viết hôm nay.
Từ của năm gây sốc
Trước “brainrot”, Oxford cũng từng gây sốc với từ của năm 2015 – emoji mặt cười ra nước mắt. Tuy nhiên, “brainrot” vẫn đem lại nhiều bất ngờ và là một tin chấn động trên Internet toàn cầu khi được công bố. Oxford cho biết các chuyên gia theo dõi của họ nhận thấy độ phủ và mức độ ảnh hưởng của từ này trong năm 2024 là rất cao, gần như “brainrot” xuất hiện ở khắp mọi nơi trên Internet.
*Nguồn ảnh: VOH*
Được định nghĩa là “sự suy giảm giả định về trạng thái tinh thần hoặc trí tuệ của một người, đặc biệt được xem là kết quả của việc tiêu thụ quá nhiều nội dung (đặc biệt là nội dung trực tuyến) tầm thường, không hữu ích.” Việc sử dụng thuật ngữ này thậm chí đã tăng một cách đáng kinh ngạc 230% giữa năm 2023 và 2024! Dường như rất nhiều người trong chúng ta đã cảm thấy “trạng thái cạn kiệt kỹ thuật số”.
Những biểu hiện của “brainrot”
Trên thực tế, khái niệm “brainrot” không hoàn toàn mới. Lần sử dụng được ghi nhận sớm nhất của từ này thực ra là vào năm 1854, trong cuốn sách Walden của Henry David Thoreau. Ông đã sử dụng nó để chỉ trích những gì ông coi là sự suy giảm các tiêu chuẩn trí tuệ, so sánh nó với bệnh úng thối ở khoai tây. Vì vậy, Internet chỉ mang lại cho từ này một sự thay đổi mới mẻ, mang đậm chất “meme” hơn chứ cốt lõi của nó không thay đổi, vẫn là chỉ sự choáng ngợp bởi nội dung “nhảm nhí” đã tồn tại từ lâu.
Một trong những biểu hiện của “brainrot” rõ ràng nhất là sự mắc kẹt trong một vòng lặp suy nghĩ về một thứ mà bạn tiếp nhận, tới nỗi bạn cảm thấy bị ám ảnh bởi nó, thậm chí thứ đó còn len lỏi vào giấc mơ của bạn. Bạn lẩm nhẩm, ngân nga một giai điệu xu hướng nào đó khắp nơi, đột nhiên bật cười vì một thứ khiến bạn nhớ tới video hài hước mới xem trên mạng, bạn thậm chí còn tưởng tượng ra “meme” nào đó trong đầu khi nói chuyện với người khác, bạn cảm thấy khó khăn trong việc sử dụng ngôn ngữ để diễn ra ý nghĩ trong đầu và ước có thể dùng “meme”, nhãn dán ngoài đời thực, điều này làm gián đoạn rất nhiều hoạt động của bạn.
*Nguồn ảnh: Bách hoá XANH*
“Brainrot” còn thể hiện ở sự cuồng nhiệt khó kiểm soát về một nhân vật, một hiện tượng nào đó. Bạn cảm thấy một sự gắn bó ảo với các nhân vật xa lạ hoặc không có thật ngoài đời, giống như bạn và họ có chung một con đường, một hành trình và giữa các bạn có một mối liên kết tình cảm mạnh mẽ đến mức bạn cảm thấy họ là một phần cuộc sống của bạn. Chính cảm xúc mãnh liệt này khiến bạn tiêu thụ mọi nội dung liên quan (từ chính thống tới ngoài lề, phân tích chuyên sâu tới những câu chuyện suy đoán, v.v.). Thậm chí bạn còn dùng những “trò đùa nội bộ” khó hiểu và các “meme” dành riêng cho một cộng đồng hâm mộ nào đó (tiếng Anh: fandom) vào cuộc trò chuyện thông thường với những người không có liên quan, khiến họ bối rối, không biết bạn đang nói gì.
Nghịch lý là bạn có thể lầm tưởng “sự thoái hoá chức năng não bộ” này với “cảm hứng sáng tạo”. Việc bạn thấy mình đột nhiên được thôi thúc vẽ tranh, viết truyện giả tưởng về các nhân vật (tiếng Anh: fanfic), biên tập các video hay trộn các bài nhạc để giải quyết sự ám ảnh của bạn có thể được xem như một biểu hiện của “fan cứng”, “fan ruột” nhưng nếu nhìn sâu vào bên trong, chúng có thể có “mùi vị” của việc mất kiểm soát khi bạn đánh mất động lực và suy giảm chất lượng các công việc khác.
Những bản nhạc gây nghiện với những đoạn “earworm” mắc kẹt trong đầu người nghe, những video trình diễn âm nhạc, những đoạn clip “đu trend” khiến bạn xem đi xem lại suốt cả tiếng đồng hồ, v.v. được xem như những thủ phạm trực tiếp khiến cho người dùng Internet bị “brainrot”. Một nghiên cứu về “earworm” cho thấy hơn 90% người dùng Internet thú nhận đã trải qua chúng và điều này được kích hoạt bởi sự tiếp xúc thường xuyên hoặc lặp đi lặp lại – đúng cái cách các nhà phát hành, các nghệ sĩ hiện đại cố gắng quảng bá sản phẩm của họ. Người dùng hiện đại gần như khó có thể thoát khỏi mạng lưới truyền thông và cứ thế rơi vào các vòng lặp, nhất là khi tốc độ lan truyền nhanh chóng của một hiện tượng trên Internet là điều không cần bàn cãi.
Các nhà ngôn ngữ học thường xuyên nhấn mạnh về cách mà Internet đã và đang thay đổi ngôn ngữ ở cấp độ toàn cầu. Các ngôn ngữ được sử dụng lẫn lộn nhiều hơn bởi sự cởi mở và tiếp thu nhanh chóng của người dùng trẻ, những từ lóng cũng phổ biến ở cấp quốc tế nhanh chóng hơn, kéo thế hệ Z và Alpha ở khắp nơi trên thế giới lại gần nhau hơn, gây ra các xu hướng ngôn ngữ mới khiến chúng ta liên tục bất ngờ. Những từ tưởng như vô nghĩa như “skibidi” hay “rizz” từng gây ấn tượng về mức độ phổ biến của mình. Chỉ trong thời gian ngắn, chúng trở thành những từ đại diện cho cả thế hệ Z và Alpha.
Điều thú vị là ngay cả Giáo hoàng Francis cũng từng sử dụng một từ tương đương với “brainrot” trong tiếng Ý (“putrefazione cerebrale”) để kêu gọi mọi người giảm bớt việc sử dụng mạng xã hội. Đây được xem như một hành động thể hiện mối lo ngại ngày càng tăng bởi các nội dung trực tuyến chất lượng thấp đối với tâm trí chúng ta.
Mặc dù theo các nhà khoa học, hầu hết các trường hợp “brainrot” đều chỉ là tạm thời, giống như sự ám ảnh thoáng qua với một bộ lọc hoặc xu hướng nhảy nào đó nhưng nghiên cứu về thời gian sử dụng thiết bị điện tử quá mức cho thấy những tác động lâu dài tiềm ẩn bên trong. Các nghiên cứu gợi ý rằng việc liên tục tiêu thụ nội dung ngắn, nhịp độ nhanh có thể góp phần làm giảm khả năng tập trung và gây mệt mỏi tinh thần. Việc giới hạn thời gian sử dụng thiết bị điện tử cho mục đích giải trí xuống khoảng 30-60 phút mỗi ngày thường được khuyến nghị để giúp ngăn ngừa tình trạng quá tải kỹ thuật số này.
Vì vậy, lần tới khi bạn nói đùa rằng não của bạn đang “thối rữa” vì một cái “sound Tóp Tóp” nào đó, hãy nhớ rằng bạn đang trải nghiệm một hiện tượng Internet mang cấp độ toàn cầu – dù là có thể nó không tốt lành đến vậy!